Chiến cuộc lan rộng (Tháng 6 - 12 năm 1941) Trận_chiến_Đại_Tây_Dương_(1939-1945)

Máy bay trinh sát và ném bom SB2U Vindicator thuộc chiến hạm USS Ranger (CV-4)truy tìm tàu ngầm và hộ tống đoàn tàu hàng WS-12, trên đường đến Cape Town, 27 tháng 11, 1941. Nhiều đoàn tàu tiếp vận Anh được các phi đội hải quân Mỹ hộ tống trước khi Mỹ chính thức tham chiến

Giữa năm 1941, hải quân Anh quyết định kế hoạch hộ tống dọc suốt cả tuyến đường biển ngang phía bắc Đại Tây Dương. Lực lượng hải quân Canada do đề đốc Leonard W. Murray chỉ huy được giao trọng trách hộ tống phần phía tây của tuyền đường, từ bắc Mỹ cho đến Newfoundland và ra điểm hẹn gần Iceland, từ cứ điểm này hải quân Anh từ Liverpool sẽ kéo ra thay phiên tiếp tục hộ tống tuyến đường còn lại về Anh.

Hoa Kỳ tham chiến

Tuy trên danh nghĩa vẫn còn trung lập, Hoa Kỳ càng ngày càng tham gia nhiều hơn vào cuộc tranh chấp giữa Anh và Đức. Tháng 4 năm 1941, tổng thống Roosevelt cho nới dài Khu vực an ninh xuyên Mỹ đến tận Iceland. Hòn đảo này trước đó đã bị Anh lấn chiếm để tạo căn cứ phòng vệ trước tình hình Đức chiếm Đan Mạch. Quân Hoa Kỳ được Anh khuyến khích ra đóng quân trên đảo này để hỗ trợ quân đội Anh. Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu tham gia hộ tống tàu hàng của Anh và cũng nhiều lần đụng độ với U-boot của Đức. Khi Hoa Kỳ chính thức tuyên chiến với Đức, hải quân của ba nước Anh-Cannada-Hoa Kỳ phối hợp tạo thành Lực lượng Hộ tống Đại dương.

Tháng 6 năm 1941, ngoài công vụ hộ tống phía bắc Đại tây Dương, Hoa Kỳ cũng lo ngại về các đoàn tàu không hộ tống từ Nam Mỹ đến nước Anh. Ngày 21 tháng 5, tàu Hoa Kỳ SS Robin Moor bị tàu ngầm U-69 chận lại. Sau khi cho phép thủy thủ và hành khách Hoa Kỳ 30 phút để leo hết lên các xuồng ghe cứu đắm, quân Đức bắn chìm tàu chở hàng này. Những người ngồi trên các chiếc ghe nhỏ trôi dạt 18 ngày mới được tìm thấy và cứu vớt. Tin kinh hoàng này gây xáo trộn trong giới hàng hải Hoa Kỳ - nỗi lo sợ bị tàu ngầm Đức đánh chìm tăng vọt. Báo Times viết "nếu để những vụ đánh đắm này tiếp diễn, tàu hàng Hoa Kỳ đi đến những xứ xa chiến tranh cũng sẽ bị nguy hiểm. Do vậy, Hoa Kỳ hoặc phải kêu gọi thuyền bè về lại bến, hoặc phải ra sức nhấn mạnh quyền tự do sử dụng đường biển."[16]

Một số các nghiên cứu và phát minh của khoa học Anh trong kỹ thuật chống tàu ngầm lúc này được đem sang phát triển và cải tiến tại Hoa Kỳ. Do đó nhiều phát minh của Anh có khi bị hiểu lầm là phát minh của Mỹ.

"Tàu buôn phóng máy bay"

Máy bay Hawker Sea Hurricane trên bệ phóng tàu CAM

Kỹ thuật máy bay thời này phát triển mạnh mẽ nhưng diện tích Đại Tây Dương quá lớn không thể dùng máy bay kiểm soát hết được. Một giải pháp tạm thời là trang bị trên tàu buôn những bệ phóng hỏa tiễn phía trên có gắn một chiếc máy bay chiến đấu loại nhẹ Hawker Hurricane. Tàu buôn có khả năng phóng máy bay này được gọi là tàu CAM (tiếng Anh: Catapult Aircraft Merchantmen). Khi thấy máy bay Đức đến tấn công, máy bay theo đà hỏa tiễn được phóng lên nghênh chiến. Sau khi hoàn thành không vụ, nếu quá xa đất liền và không có chỗ đáp, phi công phải nhảy dù và cho máy bay rơi. Kỹ thuật phóng máy bay này được sử dụng 9 lần, bắn hạ 8 máy bay Đức và 1 phi công Đồng Minh thiệt mạng. Không quân Đức từ từ bị Không quân hoàng gia Anh và tàu buôn phóng máy bay đẩy ra ngoài vòng chiến.